Đề thi vào lớp 10 chuyên Văn năm 2023 (trên cả nước)

Đề thi vào 10 chuyên Văn

Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 hệ chuyên

Đề thi môn: Ngữ văn

Năm học 2019 – 2020

Thời gian: 120 phút

Câu 1 (4.0 điểm)

   Phải chăng…

Cuộc sống là một đường chạy ma-ra-tông dài vô tận, nếu ta không cố gắng thì sẽ mãi bị bỏ lại ở phía sau và không bao giờ tới đích.

Cuộc sống là một đường chạy vượt rào, nếu ta không cố gắng ta sẽ không thể vượt qua bất kì rào cản nào.

Cuộc sống là một đường chạy nước rút, nếu ta không cố gắng ta chỉ là người chạy cuối cùng.

Cuộc sống là một đường chạy tiếp sức, biết giúp đỡ nhau chúng ta sẽ chiến thắng. Vậy cuộc sống của bạn là đường chạy nào ?

(Theo http://khotangdanhngon.com)

Hãy viết một bài văn nghị luận trả lời câu hỏi : “Cuộc sống của bạn là đường chạy nào?”

Câu 2 (6,0 điểm)

Có người cho rằng một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời.

Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, hãy làm sáng tỏ điều đó.

Đáp án & Thang điểm

Câu 1 (4.0 điểm)

1. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề.

2. Thân bài:

a) Giải thích:

– Đường chạy marathon dài vô tận: đường chạy dài, đòi hỏi con người phải trường sức, giữ sức, bền bỉ, không bỏ cuộc, cố gắng về tới đích.

– Đường chạy vượt rào: trên đường chạy có những rào chắn, đòi hỏi sức bật để vượt qua. Có vượt qua được những rào cản mới về được đến đích.

– Đường chạy nước rút: đoạn chạy cuối trên một đường đua, phải tốc lực để về đích sớm nhất có thể, nếu không cải thiện về tốc độ thì sẽ bị tụt lại sau và trở thành người về đích cuối cùng.

– Đường chạy tiếp sức: có những con đường dài, một mình không đủ sức vượt qua nổi, nên sẽ có những người đảm nhận vị trí của từng đoạn, tiếp nối, tiếp sức cho nhau để nhanh chóng về đích, giành được chiến thắng.

→ Cách nói hình ảnh, có ý nghĩa biểu tượng: nói về con đường đời với những tính chất và yêu cầu, đòi hỏi khác nhau, song có một điểm chung là con người luôn phải cố gắng nỗ lực hết sức, bằng khả năng của bản thân và kết nối với mọi người, để chúng ta đến được một cái đích, đạt được một mục tiêu nào đó đã đặt ra.

b) Bàn luận, mở rộng vấn đề:

– Có thể khẳng định: đường đời của chúng ta không thể chỉ là một trong những con đường trên mà phải là sự tổng hợp linh hoạt của cả bốn con đường, tùy từng chặng, từng giai đoạn khác nhau của cuộc đời.

– Dù ở chặng nào, điều quan trọng và cần thiết để chúng ta vượt qua và chiến thắng là:

+ Sự cố gắng nỗ lực của bản thân.

+ Sự đoàn kết, chung sức, hợp lực với những người khác.

– Tuy nhiên, cuộc sống không phải lúc nào cũng là những đường chạy, những cuộc đua, những cái đích hữu hạn, hữu hình. Nhưng cuộc sống luôn đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng bền bỉ để có những cuộc “về đích” thật ngoạn mục.

– Phê phán:

+ Những người không nỗ lực, cố gắng trên hành trình sống…

+ Những người dựa dẫm, ỷ lại vào người khác…

c) Bài học nhận thức và hành động:

– Từ nhận thức đúng đắn về đường đời và điều kiện, sức mạnh để đến đích, mỗi người xác định được ý thức và hành động để mỗi chặng đường đời của mình đều có thể gặt hái nhiều thành công, sự sống nhiều giá trị và ý nghĩa…

3. Kết bài: Kết thúc vấn đề, khẳng định ý nghĩa, giá trị tư tưởng.

Câu 2 (6,0 điểm)

1. Giải thích:

– Nhận định bày tỏ quan niệm, yêu cầu đối với một truyện ngắn hay:

+ Là chứng tích của một thời: phản ánh chân thực hiện thực thời đại, đặt ra những vấn đề quan trọng, bức thiết của cuộc sống, con người đương thời (bản chất hiện thực, số phận con người, nỗi trăn trở nhân sinh…).

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: tác phẩm đặt ra, chạm tới được những chân lí giản dị – những vấn đề bình dị nhưng đúng đắn, là cốt lõi, bản chất, mang tính quy luật phổ quát, lâu dài của nhân sinh muôn thuở.

– Truyện ngắn hay là những tác phẩm hài hòa hai giá trị: vừa soi bóng thời đại, ghi dấu những vấn đề lớn, cốt lõi của thời đại – vừa có ý nghĩa lâu dài, chạm đến những chân lí bình thường, phổ quát, muôn đời..

2. Bình luận:

Đây là nhận định đúng đắn, sâu sắc, đặt ra yêu cầu tất yếu đối với một tác phẩm có giá trị và sức sống lâu dài.

– Đặc trưng về đối tượng phản ánh của văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng là khám phá, miêu tả, soi bóng thời đại mà nó ra đời: hiện thực cuộc sống, đời sống con người, đặt ra những vấn đề nhân sinh phong phú, phức tạp…

– Đặc trưng của truyện ngắn: thể loại tự sự cỡ nhỏ, dung lượng ngắn, thường chỉ kể về một tình huống đặc biệt của đời sống, với số lượng không nhiều các nhân vật, tình tiết, chi tiết, qua đó gửi gắm những thông điệp tư tưởng, tình cảm của tác giả.

– Truyện ngắn hay phải là những tác phẩm kết tinh hài hòa hai giá trị:

+ Là chứng tích của một thời: tác phẩm phải phản ánh được bức tranh sâu rộng về hiện thực thời đại, xây dựng được những chân dung nhân vật vừa chân thực vừa điển hình của thời đại, đặt ra được những vấn đề cốt lõi, quan trọng, bức thiết nhất đương thời. Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời (Tô Hoài)

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: khi tác phẩm chạm đến được chiều sâu của hiện thực, đặt ra được một hoặc nhiều vấn đề tuy giản dị, bình thường nhưng là bản chất, cốt lõi, có tính quy luật, là chân lí phổ quát muôn đời. Khi đó, tác phẩm là kết quả của sự gắn bó, trăn trở sâu sắc với thời đại và nhân sinh, thực sự có giá trị và sức sống lâu dài.

– Giá trị và sức sống ấy chỉ có được khi tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao: tuy dung lượng ngắn, tình huống độc đáo, nhân vật không nhiều, chi tiết cô đúc … nhưng có độ dồn nén, hàm súc, khả năng khái quát, điển hình.

3. Chứng minh qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

Thí sinh làm sáng tỏ nhận định qua các dẫn chứng diện và điểm, trong đó đi sâu phân tích cụ thể truyện ngắn được nêu ở đề bài.

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bám sát định hướng của đề.

4. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:

Nhận định chủ yếu khẳng định giá trị, vẻ đẹp, sức sống của thể loại truyện ngắn ở phương diện ý nghĩa nội dung tư tưởng, song cũng cần nhắc tới những yêu cầu, phẩm chất về nghệ thuật của thể loại: dựng truyện, kể chuyện hấp dẫn; xây dựng nhân vật; lựa chọn sáng tạo chi tiết, giọng điệu, lời văn…

– Ý kiến được nêu cũng gợi nhắc những đòi hỏi, yêu cầu:

+ Đối với người sáng tác: phải gắn bó, hiểu biết sâu sắc, trăn trở và nói lên những vấn đề thiết cốt nhất của thời đại để tác phẩm của mình thực sự là chứng tích của một thời; đồng thời đào sâu vào những vấn đề bản chất, chân lí của nhân sinh để tác phẩm có ý nghĩa và sức sống lâu dài, vượt tầm thời đại.

+ Đối với người đọc: tiếp nhận, trân trọng giá trị của những tác phẩm hay giúp ta hiểu sâu rộng hơn về cuộc sống, con người một thời và thấy được ý nghĩa của tác phẩm với muôn đời, muôn người, trong đó có chúng ta và thời đại mình đang sống.

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 hệ chuyên

Đề thi môn: Ngữ văn

Năm học 2019 – 2020

Thời gian: 120 phút

Câu 1:

“Tôi qua A Sao vào cuối mùa xuân. Miền Tây xa xôi đang trải qua những tháng ngày tương đối yên tĩnh sau khi căn cứ địch bị quét khỏi thung lũng. Trong lúc A Pách lúi húi nhóm bếp để làm thêm thức ăn, tôi ngồi tựa nửa người trên võng, hai tay vòng dưới gáy, yên lặng ngắm vẻ đẹp của rừng từng trải rộng chung quanh. Rừng thoáng, nhẹ nhõm, mặt đất sạch quang như có người quét tước, những đám rêu xanh lục trải rộng mịn như nhung, trên đó hơi ẩm kết những hạt cườm tấm mưa bụi mát rượi. Không có gió nhưng rừng tùng vẫn reo mơ hồ, như mạch suối ngầm mùa xuân, như điệu nhạc khèn bát ngát của sơn nhân vắng lại từ núi cao. Tâm hồn tôi tự buông thả trong một trạng thái nghỉ ngơi hoàn toàn. Tôi nhắm mắt để nhìn thấy tỏa ra cái vừng sáng dịu dàng của giấc mơ nhẹ, nghe trong tiếng hát kia của loại tùng bách một điều gì đấy thật xa xôi, như là thuộc về muôn đời. Con chim gõ kiến ấn sĩ vẫn gõ đều nhịp thời gian, tiếng trầm và đục, trên một cây tùng nào đó.”

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đời rừng trong Ai đã đặt tên cho dòng sông, NXB Kim Đồng, 1999, tr. 30-31).

a. Trong đoạn văn bản trên, tác giả đã kết hợp những phương thức biểu đạt nào?

b. Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Không có gió nhưng rừng tùng vẫn reo mơ hồ, như mạch suối ngầm mùa xuân, như điệu nhạc khèn bát ngát của sơn nhân vắng lại từ núi cao.”

Câu 2:

“…Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của Đất.”

(Trích Bức thư của thủ lĩnh da đỏ, dẫn theo SGK Ngữ văn 6, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.138)

Viết một đoạn văn nghị luận xã hội (khoảng 12 câu) theo cách lập luận quy nạp trình bày suy nghĩ của em về những điều câu văn trên gợi ra.

Câu 3:

   Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

   Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

   Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

   Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

   Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

   Mẹ cùng cha công tác bận không về,

   Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

   Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

   Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

   Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

   Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

 

   Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

   Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

   Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

   Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

   “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

   Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

   Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

   [….]

   Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

   Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

   Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

(Bằng Việt, Bếp lửa, SGK Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2017, tr. 144 145)

Cảm nhận của em về ba khổ thơ trên.

Đáp án & Thang điểm

Câu 1:

a. Trong đoạn văn bản trên, tác giả đã kết hợp những phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm.

b. Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Không có gió nhưng rừng tùng vẫn reo mơ hồ, như mạch suối ngầm mùa xuân, như điệu nhạc khèn bát ngát của sơn nhân vắng lại từ núi cao.”

+ Nhân hóa “rừng vẫn reo” nhằm khiến cho câu văn trở nên sinh động hơn, làm cho khu rừng có hồn như một cơ thể sống.

+ So sánh: âm thanh của rừng tùng như mạch suối ngầm…, như điệu nhạc khèn … giúp câu văn trở nên đầy sức sống và vang vẳng âm thanh của thiên nhiên của đất trời, tăng sức gợi hình gợi cảm cho đoạn văn cũng như thể hiện tâm hồn tinh tế của tác giả,

Câu 2:

Gợi ý:

Mở đoạn:

Đất là Mẹ nhấn mạnh quan hệ mật thiết gắn bó của người với đất. Đất là mẹ nên những người con phải có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, bảo vệ. Đất là Mẹ còn có ý nghĩa đất là nguồn sống, là sự chở che, bảo vệ con người. Sự gắn bó này giúp cho con người có thái độ cư xử đúng đắn với đất đai.

Thân đoạn: Nêu suy nghĩ về câu nói trên:

– Đất là “Mẹ” bao dung, ban cho “những đứa con” của đất là chúng ta cái “tổ sống”: nơi để trú ngụ, để trồng trọt, chăn nuôi tạo nên mùa màng hoa trái, cảnh quan thiên nhiên để con người thưởng ngoạn…

– “Những đứa con” của đất khi đó chỉ biết dựa vào bà mẹ thiên nhiên của mình để sinh tồn, chưa biết làm đầy “tổ sống” mà Mẹ ban cho. Con người chỉ biết khai thác, chưa có ý thức bồi đắp môi trường sống…

– Đánh giá vấn đề:

+ Nêu luận điểm (đồng tình với ý kiến của thủ lĩnh Xi-át-tơn): Điều gì con người làm cho đất đai, cho “tổ sống” , tức là làm cho chính mình.

+ Đất là tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng nó cũng có giới hạn. Nếu khai thác đến cạn kiệt, con người sẽ phải trả giá khốc liệt: khai thác gồ bừa bãi dẫn đến lũ lụt, khai thác đất đai dẫn đến nguy cơ động đất, sóng thần; nhà máy và khí thải làm ô nhiễm không khí…

+ Ngược lại nếu con người biết ơn bà mẹ thiên nhiên, chung tay bảo vệ môi trường thì sẽ nhận lại bấy nhiêu điều tốt đẹp, mưa thuận gió hòa, đất đai bình yên, mùa màng hoa trái, vạn vật sinh sôi…

– Phê phán: Trong thực tế, nhiều cá nhân, tổ chức chỉ thấy cái lợi trước mắt mà vắt kiệt môi trường tự nhiên: “lâm tặc” khai thác gỗ bừa bãi, “cát tặc” nạo vét lòng sông tùy tiện, lấp sông để xây dựng đô thị…

– Chúng ta cần làm gì? Mỗi người trong chúng ta cùng hành động, chung tay bảo vệ môi trường sống của mình: tiết kiệm điện năng, hưởng ứng Giờ Trái đất…

Kết đoạn:

Qua những lời tâm huyết của vị thủ lĩnh da đỏ, chúng ta thấy được ý thức bảo vệ môi trường đã có từ thời xa xưa. Con người, dù ở bất kì nơi nào, dù không cùng màu da và tiếng nói, hãy xem đất là Mẹ, là nơi thiêng liêng nhất mà loài người cùng chung sống.

Câu 3:

I. Mở bài: giới thiệu về tác giả Bằng Việt và bài thơ “Bếp lửa”.

II. Thân bài: Cảm nhận về 3 khổ thơ.

1. Cảm nhận về khổ thơ 1

   Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

   …….

   Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

– Điệp từ: bà – cháu tạo nên hình ảnh quấn quýt, gần gũi và đầy yêu thương của bà cháu.

Tám năm sống cùng bà là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, dạy bảo, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng bà – bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm,bà chăm cháu học… Cảm cái công ơn ấy,người cháu lại càng thương bà : “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa của bà là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút,đùm bọc bà dành cho cháu.

– Điệp từ “tu hú” thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau của âm thanh, vừa có sự gần gũi nhưng vẫn thể hiện khoảng không mênh mông. Gợi nhớ về kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim như giục giã,như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong.

– Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi! Chẳng….” thể hiện tâm trạng của người cháu, nó khiến cho không gian kỉ niệm như có chiều sâu và nỗi nhớ thương bà của cháu càng trở nên thăm thẳm, vời vợi.

2. Cảm nhận về khổ thơ thứ 2

   Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

   …..

   Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

– Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. → Hoàn cảnh đất nước có chiến tranh cũng khiến cuộc sống của nhân dân muôn vàn khó khăn.

→ Trên cái nền của sự tàn phá, huỷ diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Vẻ đẹp của tình người toả sáng trong những năm chiến tranh khói lửa.

– Điều khiến đoạn thơ trở nên xúc động nhất là hình ảnh một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những gian nan,đau khổ mà không luôn “vững lòng”. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:

   Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

   Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

→ Bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm kháng chiến. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến. Bà thật là giàu lòng yêu thương. Chan chứaa trong từng lời thơ, ta cảm nhận được lòng biết ơn, niềm tự hào của người cháu đã trưởng thành khi nghĩ về người bà thân yêu.

3. Khổ cuối bài thơ Bếp Lửa

   Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

   ………

   – Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…

– Khi đi xa, nỗi nhớ về bà và bếp lửa vẫn khôn nguôi trong lòng người cháu

+ Khổ thơ cuối là lời tự bạch của cháu khi trưởng thành, tác giả làm nổi bật sức mạnh mang tính nguồn cội

+ Người cháu dù đi xa nhưng vẫn khôn nguôi nhớ về bà, nhớ về bếp lửa, quê hương… đó cũng chính là đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc

+ Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ có ý nghĩa mở ra những khắc khoải, thường trực trong lòng người cháu về tình cảm, nỗi nhớ bà và quê hương.

Kết bài.

Nêu cảm nhận chung của em về 3 đoạn thơ này.

Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 hệ chuyên

Đề thi môn: Ngữ văn

Năm học 2019 – 2020

Thời gian: 120 phút

Câu 1 (4 điểm)

   “Một trong những lời khuyên tệ nhất trên đời là: “Hãy theo đuổi đam mê”. Lời khuyên đó rất tồi vì thực sự nhiều người không giỏi trong lĩnh vực họ đam mê”. Đây là quan điểm của ông Mark Cuban – một tỉ phú Mĩ có khối tài sản trị giá hơn 3 tỉ USD, sở hữu câu lạc bộ bóng rổ Dallas Mavericks và là một ngôi sao của chương trình truyền hình thực tế “Shark Tank”.

   “Tôi từng đam mê trở thành vận động viên bóng chày. Rồi tôi nhận ra cú ném bóng nhanh nhất của mình chỉ đạt 70 dặm/giờ, trong khi các tay ném chuyên nghiệp đạt vận tốc trên 90 dặm/giờ” – ông Cuban đưa ra dẫn chứng từ bản thân.

   Có những đam mê chỉ nên dừng lại ở sở thích, một người chỉ thành công khi biết khai thác thế mạnh của mình. Đừng cố chấp theo đuổi đam mê.

(Theo Phúc Long, Tỉ phú Mỹ nói sốc: “Theo đuổi đam mê là lời khuyên dối trá”, Báo Tuổi Trẻ, ngày 20/ 02/ 2018)

Còn em, em nghĩ như thế nào về việc theo đuổi đam mê? Từ những suy nghĩ riêng của em, hãy viết bài văn đối thoại với tỉ phú Mark Cuban.

Câu 2 (6 điểm)

   Nỗi nhớ bắt đầu từ những điều giản dị, thân quen, từ vầng trăng nghĩa tình năm nào (Ánh trăng – Nguyễn Duy), từ hình ảnh làng quê thân yêu (Làng – Kim Lân), từ bếp lửa ấp iu nồng đượm (Bếp lửa – Bằng Việt), từ những tháng ngày hồn nhiên trong ngôi nhà nhỏ ở Hà Nội (Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê),…

   Nỗi nhớ có lúc đầy lúc vơi, lúc trào dâng mạnh mẽ, lúc lặng lẽ dịu êm,…

   Nỗi nhớ khiến con người nhận ra bao điều; khiến con người yêu thêm, hiểu thêm những giá trị cuộc sống để thấy đời mình ý nghĩa hơn,…

Từ những gợi ý trên và từ những trải nghiệm trong quá trình đọc tác phẩm văn học, em hãy viết bài văn với nhan đề: “Hành trình của nỗi nhớ”.

Đáp án & Thang điểm

Câu 1 (4 điểm)

– Giải thích: “đam mê” : sở thích mãnh liệt, cao độ. Theo lẽ thông thường, con người sẽ luôn nỗ lực theo đuổi đam mê. Thế nhưng tỉ phú Mĩ lại khuyên các bạn trẻ “đừng cố chấp theo đuổi đam mê” bởi vì “một người chỉ thành công khi biết khai thác thế mạnh của mình và đam mê không phải lúc nào cũng đi đôi với sở trường.

– Bàn luận:

+ Không hẳn cứ theo đuổi đam mê thì sẽ đạt được thành công. Thành công chỉ đến khi con người phát huy được năng lực của mình. Nếu chỉ có sự yêu thích mà không có khả năng trong lĩnh vực mình yêu thích thì chắc chắn con người không thể làm tốt công việc, thậm chí còn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, thay vì làm điều mình đam mê, hãy lựa chọn đúng sở trường của mình để phát huy.

+ Tuy nhiên, giá trị của đam mê không chỉ ở chỗ nó mang đến thành công cho con người mà quan trọng hơn, nó giúp con người có được niềm vui trong cuộc sống. Được theo đuổi đam mê, dù kết quả có ra sao, nhiều người vẫn cảm thấy hài lòng, hạnh phúc. Hơn nữa nếu không theo đuổi đam mê, cả đời chúng ta sẽ luôn cảm thấy luyến tiếc vì đã bỏ lỡ những mong muốn, nguyện vọng của bản thân. Nhiều khi chính đam mê cao độ sẽ khiến ta có thể vượt qua những hạn chế của bản thân để tiến xa hơn trong một lĩnh vực nào đó.

+ Phê phán những người vội buông bỏ đam mê ngay khi chưa thấy triển vọng thành công cũng như những người cứ cố gắng theo đuổi những điều mình không có khả năng thực hiện, từ đó gây ra những hậu quả cho bản thân, gia đình và xã hội.

– Bài học nhận thức và hành động: nhận thức được tầm quan trọng của đam mê trong cuộc sống; cố gắng theo đuổi đam mê khi còn có thể, biết từ bỏ khi đam mê không thể mang lại những giá trị tốt đẹp,…

Câu 2 (6 điểm)

– Giải thích: hành trình của nỗi nhớ: là một hành trình có khởi điểm (bắt đầu từ những điều giản dị, thân quen), có quá trình (lúc đầy lúc vơi, lúc trào dâng mạnh mẽ, lúc lặng lẽ dịu êm,…), có giá trị, ý nghĩa sâu sắc (khiến con người nhận ra bao điều; khiến con người yêu thêm, hiểu thêm những giá trị cuộc sống để thấy đời mình ý nghĩa hơn,…)

→ Đây là một nhan đề mang nhiều sức gợi, tạo được sự đồng cảm ở người đọc.

– Bàn luận:

+ Văn học phản ánh hiện thực mà con người là trung tâm của hiện thực nên con người sẽ là đối tượng hướng tới của văn học. Khi viết về con người, văn học không dừng lại ở việc miêu tả vẻ bề ngoài mà chú ý đến đời sống tình cảm với nhiều biểu hiện phong phú, sinh động. Một trong những tình cảm sâu sắc, mang nhiều ý nghĩa chính là nỗi nhớ.

+ Văn học chân chính phải có khả năng lay động tâm hồn và tác động đến nhận thức của con người. Chính vì vậy, nỗi nhớ được nhắc đến trong văn học phải có chiều sâu, có quá trình, có giá trị nhân sinh tích cực, đem đến nhiều sự vỡ lẽ về nhận thức cho người đọc.

– Phân tích một số tác phẩm để thấy hành trình của nỗi nhớ. Có thể chọn những tác phẩm được gợi ý trong đề bài hoặc những tác phẩm bên ngoài (kể cả tác phẩm ngoài SGK). Cần thấy được nỗi nhớ trong tác phẩm không phải là một khoảnh khắc, một phút bất chợt mà là cả quá trình với nhiều diễn tiến, kết quả của quá trình ấy là những tác động tích cực đến tâm hồn con người.

Một số gợi ý:

Trong bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã tái hiện những kỉ niệm sâu sắc với vầng trăng từ hồi nhỏ cho đến hồi chiến tranh ở rừng. Cũng có lúc vầng trăng bị nhân vật trữ tình lãng quên nhưng rồi vầng trăng ấy lại trở về vẹn nguyên trong nỗi nhớ khiến con người thấm thía cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao và biết rút ra bài học về lẽ sống chung thủy cho mình.

Trong tác phẩm Làng của Kim Lân, ông Hai dù đi xa vẫn luôn nhớ về làng, về những ngày sống gắn bó cùng anh em đồng chí, nỗi nhớ biến thành nỗi hờn tủi khi nghe tin làng theo giặc và vỡ òa thành niềm sung sướng khi biết người Chợ Dầu vẫn một lòng với kháng chiến. Nỗi nhớ làng sâu nặng đã thể hiện sự gắn bó với quê hương và vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai.

Trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, người cháu đã nhớ về những tháng ngày vất vả, gian khổ, gắn bó cùng bà bên bếp lửa tuổi thơ. Nỗi nhớ ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.

Trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, giữa chiến trường khốc liệt, nhân vật Phương Định vẫn nhớ về những tháng ngày hồn nhiên ở Hà Nội. Nỗi nhớ như cơn mưa rào tưới mát tâm hồn, giúp cô có những phút giây êm dịu giữa những ngày mưa bom bão đạn, khiến cô thêm lạc quan, yêu quý tuổi trẻ của mình và gắn bó với quê hương đất nước.

– Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận:

Một số gợi ý:

Hành trình của nỗi nhớ cũng chính là hành trình nhân vật tự nhận thức, hành trình người đọc xúc động, suy ngẫm và khám phá ra nhiều giá trị trong đời sống. Đây cũng chính là điều làm nên chiều sâu nội dung tư tưởng cho tác phẩm.

+ Muốn tái hiện lại hành trình của nỗi nhớ, nhà văn cần có vốn sống phong phú, tình cảm dạt dào và tài năng nghệ thuật. Muốn cảm nhận được hành trình của nỗi nhớ trong tác phẩm, người đọc phải có trình độ thưởng thức văn học và trái tim biết rung cảm.