Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự – Ngữ văn lớp 9

[email protected] - 21/08/2023

Nghị luận trong văn bản tự sự là một hình thức thuyết phục độc đáo trong văn học. Nó có thể được sử dụng để thuyết phục độc giả về một quan điểm hay giải thích một vấn đề. Hôm nay mời bạn cùng Marathon Education tìm hiểu về chủ đề này nhé!

1. Tìm hiểu nghị luận trong văn bản tự sự là gì?

1.1. Đọc đoạn trích SGK:

a) Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu ? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

(Nam Cao, Lão Hạc)

b)

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”.

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khẩu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

Rằng : “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”

Khen cho : “Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời

Tha ra thì cũng may đời.

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”

(Nguyễn Du. Truyện Kiều)

>> Hướng dẫn cách phân biệt nghĩa tường minh và hàm ý

1.2. Trả lời các câu hỏi

Câu 1: Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.

Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên

Câu 2: Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự nói chung. Yếu tố nghị luận có thể làm cho văn bản tự sự thêm sâu sắc như thế nào?

(Gợi ý: Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:

– Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?

– Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?

– Các câu văn trong văn bản tự sự thường là loại câu gì?

– Các từ ngữ thường được dùng để lập luận trong văn bản tự sự là những từ ngữ nào?)

>> Có thể bạn cần: Tìm hiểu cách làm bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí lớp 9

hoc-thu-voi-gv-truong-chuyen

 

 

Gợi ý trả lời:

Đoạn 1:

Câu 1: Các câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận:

– Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…

– Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi.

– Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.

– Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.

– Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.

⇒ Nếu chúng ta không cố gắng hiểu những người xung quanh, chúng ta sẽ dễ dàng tìm cách để bất lương và đối xử tàn nhẫn với họ.

Câu 2:

  • Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh mình thì ta chỉ thấy toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương… => Đặt vấn đề.
  • Vợ tôi không ác, hưng vì thị khổ quá rồi nên sinh ra ích kỉ, tàn nhẫn với người khác => Luận điểm phát triển lập luận, triển khai vấn đề nghị luận.
  • Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận => Kết thúc lập luận.

⇒ Tác giả đã sử dụng các lập luận để kể một câu chuyện về nỗi đau và giằng xé trong con người. Điều này giúp đọc giả hiểu rõ hơn về quan điểm và đánh giá của tác giả về cuộc sống và con người. Bằng cách phân tích các tình huống và sự kiện trong câu chuyện, tác giả đã phác họa ra được một thực trạng nhân sinh và khổ đau của con người trong bối cảnh xã hội đầu thế kỷ XX.

 

Đoạn 2:

Câu 1:

  • Trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, chúng ta thấy Kiều và Hoạn Thư thảo luận với nhau dưới hình thức của một phiên tòa. Đây là một hình thức rất phù hợp với việc giải quyết tranh chấp trước một tòa án.
  • Trong một phiên tòa, điều quan trọng nhất là cả hai bên phải trình bày các lý lẽ, chứng cứ, nhân chứng và vật chứng để thuyết phục tòa án. Trong trường hợp này, Kiều đóng vai trò là một luật sư buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Cả hai đều có những lập luận và chứng cứ của riêng mình để bảo vệ quan điểm của mình.

Câu 2

Lập luận của Thúy Kiều:

  • Xưa nay, đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ
  • Càng cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái.

Lập luận của Hoạn Thư:

  • là đàn bà, ghen tuông là chuyện bình thường.
  • Mình đã đối xử rất tốt với cô khi cô chép kinh ở “Quan Âm Các”.
  • Mình và cô đều là cảnh chồng chung nên chẳng nhường cho nhau được…
  • Mình đã gây ra nhiều đau khổ cho cô, giờ đây mình chỉ còn trông vào lòng khoan dung rộng lớn của cô.

⇒ Thúy Kiều sử dụng hình thức khẳng định (càng … càng) để khẳng định tội ác của Hoạn Thư.

2. Luyện tập

Câu 1: Lời văn trong đoạn trích (a) trong phần trên là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Câu 2: Ở đoạn trích (b) mục 1, Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời ? Hãy tóm tắt các nội dung lý lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.

>> Dành cho bạn: Soạn văn bài Những đứa trẻ (trích Thời thơ ấu) –  Ngữ văn 9

Gợi ý trả lời:

Câu 1: Lời văn trong đoạn trích (a) là lời của ông giáo, ông giáo đang cố thuyết phục chính mình rằng vợ ông không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.

Câu 2: Trình tự lập luận của Hoạn Thư :

– Phận đàn bà, ghen tuông thường tình => xóa sự đối lập trở thành người cùng cảnh ngộ “phận đàn bà”, chỉ còn là tội ghen tuông ai cũng có. Từ tội nhân trở thành nạn nhân của chế độ đa thê.

– Kể công từng tha cho Kiều khi Kiều chạy trốn.

– Cuối cùng nhận lỗi và cầu mong sự rộng lượng.

 

bottom-banner

Các Bài Viết Liên Quan